Chiều 29/4/2022, Trường CĐ nghề Vĩnh Long tổ chức lễ công bố quyết định và nhận giấy chứng nhận đạt chuẩn kiểm định chất lượng giáo dục nghề nghiệp do Bộ trưởng Bộ Lao động, Thương binh và xã hội ban hành.
Công ty CP Kiểm định và tư vấn giáo dục Việt Nam công nhận Trường CĐ Nghề Vĩnh Long đạt tiêu chuẩn kiểm định chất lượng cơ sở giáo dục nghề nghiệp do Bộ trưởng Bộ Lao động, Thương binh và xã hội ban hành. Tổng số điểm đạt được là 92/100 điểm. Giấy chứng nhận đạt tiêu chuẩn kiểm định chất lượng có giá trị đến 22/12/2026.
Kiểm định chất lượng trong giáo dục nghề nghiệp không chỉ đảm bảo nhà trường có trách nhiệm đối với chất lượng đào tạo mà còn mang lại động lực cải tiến và nâng cao chất lượng chương trình đào tạo cũng như chất lượng toàn trường.
Kiểm định chất lượng cơ sở giáo dục là hoạt động nhằm đánh giá cơ sở giáo dục đạt chuẩn chất lượng; đồng thời, qua hoạt động đánh giá ngoài, các chuyên gia tư vấn sẽ góp ý để nhà trường nâng cao chất lượng hơn nữa.
ĐTO – Ngày 28/3, tại Trường Cao đẳng Cộng đồng (CĐCĐ) Đồng Tháp, Ban Giám hiệu nhà trường tổ chức lễ công bố quyết định và đón nhận giấy chứng nhận đạt tiêu chuẩn kiểm định chất lượng cơ sở giáo dục nghề nghiệp (CSGDNN). Đến dự có đồng chí Phạm Thiện Nghĩa – Chủ tịch UBND tỉnh/Chủ tịch Hội đồng Trường CĐCĐ Đồng Tháp; đại diện lãnh đạo các sở, ngành tỉnh và Công ty Cổ phần Kiểm định và Tư vấn giáo dục Việt Nam (VTEC).
Đại diện Công ty Cổ phần Kiểm định và Tư vấn giáo dục Việt Nam (bên phải) trao giấy chứng nhận đạt chuẩn kiểm định chất lượng cơ sở giáo dục nghề nghiệp cho Trường Cao đẳng Cộng đồng Đồng Tháp
Tại buổi lễ, đại diện Ban Giám hiệu Trường CĐCĐ Đồng Tháp báo cáo công tác thực hiện kiểm định chất lượng CSGDNN của trường. Trong năm 2021, Trường CĐCĐ Đồng Tháp thành lập Hội đồng tổ chức tự đánh giá các tiêu chuẩn CSGDNN đối với các chương trình đào tạo gồm: Công nghệ ô tô, Cắt gọt kim loại, Công nghệ thực phẩm, Bảo vệ thực vật, Nuôi trồng thủy sản. Với kết quả tự đánh giá đạt yêu cầu, tháng 1/2022, nhà trường tiếp tục phối hợp với VTEC tiến hành đánh giá ngoài và đạt kết quả 90/100 điểm, qua đó đạt tiêu chuẩn kiểm định chất lượng CSGDNN theo quy định của Tổng cục Giáo dục nghề nghiệp (Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội).
Chủ tịch UBND tỉnh Đồng Tháp Phạm Thiện Nghĩa phát biểu tại buổi lễ
Phát biểu tại lễ công bố, Chủ tịch UBND tỉnh Đồng Tháp Phạm Thiện Nghĩa gửi lời chúc mừng tập thể Đảng ủy, Ban Giám hiệu và các giảng viên, viên chức Trường CĐCĐ Đồng Tháp. Kết quả đạt chứng nhận kiểm định chất lượng CSGDNN đã góp phần khẳng định chất lượng đào tạo và mang đến những cơ hội mới để nâng tầm hoạt động của trường trong thời gian tới. Đồng thời đề nghị, nhà trường tiếp tục nỗ lực giữ vững chuẩn kiểm định chất lượng đã đạt được, có chiến lược mở rộng liên kết hợp tác, góp phần đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao…
Dịp này, Ban Giám hiệu nhà trường đã tặng Giấy khen cho các cá nhân hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ kiểm định chất lượng CSGDNN. Đồng thời tổ chức ký kết thỏa thuận hợp tác đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực với Liên minh Hợp tác xã tỉnh Đồng Tháp; công bố quyết định thành lập Chi hội Cựu Giáo chức của Trường CĐCĐ Đồng Tháp, nhiệm kỳ 2021 – 2025.
(BĐ) – Ngày 3.3, Trường CĐ Cơ điện – Xây dựng và Nông lâm Trung bộ tổ chức lễ công bố quyết định, trao giấy chứng nhận đạt tiêu chuẩn kiểm định chất lượng cơ sở giáo dục nghề nghiệp.
Tại buổi lễ, Công ty CP Kiểm định và Tư vấn giáo dục Việt Nam công bố quyết định, trao giấy chứng nhận đạt tiêu chuẩn kiểm định chất lượng cơ sở giáo dục nghề nghiệp cho Trường CĐ Cơ điện – Xây dựng và Nông lâm Trung bộ. Giấy chứng nhận có thời hạn trong 5 năm, kể từ tháng 1.2022.
Trao giấy chứng nhận đạt tiêu chuẩn kiểm định chất lượng cơ sở giáo dục nghề nghiệp cho Trường CĐ Cơ điện – Xây dựng và Nông lâm Trung bộ. Ảnh: N.M
Trước đó, từ ngày 6 đến ngày 12.12.2021, Công ty CP Kiểm định và Tư vấn giáo dục Việt Nam – một trong những đơn vị độc lập tiên phong trong lĩnh vực kiểm định chất lượng giáo dục – tiến hành đánh giá ngoài tại Trường CĐ Cơ điện – Xây dựng và Nông lâm Trung bộ. Kết quả, Trường CĐ Cơ điện – Xây dựng và Nông lâm Trung bộ đạt tiêu chuẩn kiểm định chất lượng với 94/100 điểm.
Dịp này, Trường CĐ Cơ điện – Xây dựng và Nông lâm Trung bộ và Công ty CP Kiểm định và Tư vấn giáo dục Việt Nam tiếp tục ký kết Biên bản ghi nhớ kiểm định chương trình đào tạo nghề Điện công nghiệp và nghề Công nghệ ô tô trong năm 2022. Đây là 2 trong số 4 nghề cấp độ quốc tế của Trường được Bộ LĐ-TB&XH phê duyệt ngành, nghề trọng điểm giai đoạn 2016 – 2020 và định hướng đến năm 2025.
Trường CĐ Cơ điện – Xây dựng và Nông lâm Trung bộ và Công ty CP Kiểm định và Tư vấn giáo dục Việt Nam ký kết Biên bản ghi nhớ kiểm định Chương trình đào tạo nghề Điện công nghiệp và nghề Công nghệ ô tô trong năm 2022. Ảnh: N.M
Nguồn: Trường CĐ Cơ điện – Xây dựng và Nông lâm Trung bộ
Tổng cục Giáo dục nghề nghiệp (Bộ LĐTBXH) vừa có công văn gửi các địa phương, các đơn vị GDNN trực thuộc tiếp tục đẩy mạnh công tác truyền thông, tư vấn tuyển sinh, hướng nghiệp hoàn thành mục tiêu tuyển sinh GDNN năm 2021.
Truyền thông đa dạng, linh hoạt phù hợp với vùng miền Công văn số 2241 vừa được Tổng cục GDNN ký ban hành hôm nay, 15/10, nêu rõ: Trong bối cảnh dịch bệnh Covid-19 đã và đang ảnh hưởng tới hoạt động giáo dục nghề nghiệp, công tác truyền thông, tư vấn tuyển sinh, hướng nghiệp và quảng bá về hoạt động giáo dục nghề nghiệp trong thời gian qua đã được duy trì và triển khai rộng khắp.
Trong bối cảnh đó, truyền thông đã kịp thời thông tin, phản ánh những nỗ lực đóng góp của GDNN trong công tác phòng chống dịch Covid-19, hoạt động dạy và học, công tác tuyển sinh tư vấn hướng nghiệp. Các cơ sở GDNN đã có nhiều sáng tạo trong sản xuất các chương trình truyền thông và sử dụng các ứng dụng mạng xã hội để lan tỏa các hình ảnh, thông điệp tích cực của nhà trường và toàn hệ thống giáo dục nghề nghiệp.
Nhằm tiếp tục đẩy mạnh hơn nữa công tác thông tin, truyền thông đảm bảo hoàn thành mục tiêu, kế hoạch năm 2021, Tổng cục GDNN đề nghị các Sở LĐTBXH, các cơ sở GDNN tiếp tục đẩy mạnh công tác truyền thông, tư vấn tuyển sinh, hướng nghiệp và quảng bá hình ảnh về hoạt động GDNN. Qua đó, thực hiện đổi mới, đa dạng hóa, áp dụng linh hoạt mở các hình thức truyền thông phù hợp với đặc điểm vùng miền, địa phương, đối tượng người học.
Tổng cục GDNN yêu cầu các cơ sở GDNN tiếp tục truyền thông tuyển sinh, nỗ lực hoàn thành kế hoạch tuyển sinh năm 2021. Ảnh: Học nghề cơ khí tại Trường CĐ Cơ khí nông nghiệp.
Các
nội dung truyền thông tập trung vào: Truyền thông nâng tầm kỹ năng lao
động Việt Nam, đặc biệt là nội dung Thư của Chủ tịch nước kêu gọi đồng
hành nâng tầm kỹ năng lao động vì một Việt Nam chiến thắng dịch bệnh và
phát triển bền vững; xây dựng hệ thống giáo dục nghề nghiệp ứng phó với
Covid-19, đảm bảo cung ứng nguồn lao động có kỹ năng, góp phần chống đứt
gãy chuỗi lao động; Tiếp tục tuyên truyền về Cuộc thi viết Nâng tầm kỹ
năng lao động Việt Nam; Truyền thông cho các sự kiện như ngày 20/11; Hội
giảng nhà giáo giáo dục nghề nghiệp; Kỳ thi Kỹ năng nghề quốc gia, Lễ
Tuyên dương học sinh, sinh viên giáo dục nghề nghiệp xuất sắc, tiêu
biểu; Cuộc thi “Ý tưởng khởi nghiệp học sinh, sinh viên giáo dục nghề
nghiệp”;… Công tác tuyển sinh, tư vấn hướng nghiệp;… các cơ sở hỗ trợ
đào tạo nghề cho người lao động để tìm kiếm việc làm mới và duy trì việc
làm cho người lao động.
Phối hợp với các ngành, địa phương, các cơ quan thông tấn, báo chí tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền cho giáo dục nghề nghiệp.
Tích cực mở các chuyên mục, chuyên trang tuyên truyền về giáo dục nghề nghiệp định kỳ trên các báo, đài kịp thời, chất lượng, hiệu quả.
Trong điều kiện cho phép của địa phương, tổ chức các sự kiện, hoạt động về giáo dục nghề nghiệp tại các địa điểm công cộng, nơi vui chơi, trong khuôn viên nhà trường,… kết hợp với truyền thông và phát trực tiếp trên các trang mạng xã hội của nhà trường.
Xây dựng các biển quảng bá, pano… phát triển không gian truyền thông giáo dục nghề nghiệp, hình thành hệ sinh thái truyền thông giáo dục nghề nghiệp giai đoạn 2021-2025 đảm bảo hấp dẫn, phù hợp, kịp thời.
Trong
các hoạt động, sự kiện cần gắn với việc tuyên truyền và sử dụng 2 biểu
tượng Skilling Up Viet Nam và Worldskills Viet Nam đã được Bộ LĐTBXH phê
duyệt.
Chú trọng tới truyền thông tuyển sinh
Ông
Vũ Xuân Hùng – Vụ trưởng Đào tạo chính quy (Tổng cục GDNN) cho biết, do
ảnh hưởng từ dịch Covid-19 nên Tổng cục GDNN đã có văn bản yêu cầu các
đơn vị tăng cường truyền thông, tuyển sinh trực tuyến. Mặc dù hoạt động
tuyển sinh gặp nhiều khó khăn nhưng về cơ bản vẫn đạt được kết quả khả
quan.
Trường CĐ Công nghệ Nha Trang tổ chức ngày hội tư vấn tuyển sinh. Ảnh: Lê Ngọc Huy
Tổng
hợp của Vụ Đào tạo Chính quy, đến giữa tháng 8/2021, vụ mới nhận được
báo cáo tổng hợp về công tác tuyển sinh của gần 1 nửa tổng số cơ sở
GDNN.
Cụ
thể có 215/400 trường cao đẳng, 262/463 trường trung cấp và chỉ có 308
trong tổng số gần 2.000 trung tâm đào tạo nghề có số liệu báo cáo công
tác tuyển sinh. Theo đó, trình độ trung cấp, cao đẳng tuyển sinh, đào
tạo được hơn 75.000 người, đạt khoảng 13% kế hoạch năm 2021, bằng khoảng
83% so cùng kỳ năm 2020.
Tuyển
sinh, đào tạo trình độ sơ cấp, đào tạo thường xuyên cho khoảng 800
nghìn người (đạt 44% kế hoạch năm). Số người được hỗ trợ đào tạo trình
độ sơ cấp, đào tạo dưới 3 tháng 60.000 người. So với năm 2020, số người
được hỗ trợ học nghề giảm mạnh do nguồn ngân sách hỗ trợ không được cấp.
Như vậy, số tuyển sinh mới đạt khoảng 935.000 người trên tổng kế hoạch
cả năm là 2,4 triệu người.
Để tạo được sự lan tỏa tốt, các cơ sở giáo dục nghề nghiệp có thể liên hệ trực tiếp với Văn phòng Tổng cục Giáo dục nghề nghiệp cùng phối hợp thực hiện và phát trực tiếp trên trang Fanpage của Tổng cục.
Tổ
chức Kiểm định Vùng là vấn đề được các chuyên gia, nhà hoạch định chính
sách trong lĩnh vực giáo dục nghề nghiệp quan tâm nghiên cứu nhằm nhanh
chóng đưa ra các đề xuất kỹ thuật cho việc thiết lập một giải pháp vĩ
mô góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản trị hệ thống giáo dục nghề
nghiệp nhằm đẩy mạnh tiến trình đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục nghề
nghiệp và hội nhập quốc tế.
1. Tổ chức Kiểm định Vùng là gì?
Đến
nay chưa có khái niệm chính thức tổ chức Kiểm định Vùng cũng như mô
hình của nó ở các tài liệu, sách báo trong nước. Theo Luật Giáo dục nghề
nghiệp (khoản 2, Điều 66) thì có tổ chức kiểm định chất lượng giáo dục
nghề nghiệp do Nhà nước thành lập (khu vực công) và của tổ chức, cá nhân
thành lập gọi là tổ chức khu vực tư. Theo đó, để triển khai hoạt động
kiểm định chất lượng giáo dục nghề nghiệp trong thực tiễn thì Nhà nước
(Bộ LĐTB&XH, Tổng cục Giáo dục nghề nghiệp) phân quyền (ủy quyền)
cho các tổ chức, cá nhân khu vực công – tư trên cơ sở đáp ứng các điều
kiện luật định.
Dựa
theo pháp luật giáo dục nghề nghiệp nói chung, lý luận quản lý chất
lượng giáo dục nghề nghiệp nói riêng tác giả cho rằng việc đưa mô hình
tổ chức Kiểm định Vùng vào triển khai trong thực tiễn là hoàn toàn đầy
đủ cơ sở pháp luật, cơ sở lý luận. Và tổ chức Kiểm định Vùng là mô hình
tổ chức kiểm định do Nhà nước thành lập (đơn vị sự nghiệp công). Hơn
nữa, dựa vào lý thuyết cấu trúc quản trị quốc gia thì tại mỗi vùng, miền
(khu vực) cần có tổ chức trung gian (trung tâm) thực hiện tham vấn,
điều phối các hoạt động chuyên môn để chia sẻ trách nhiệm (gánh nặng)
cho trung ương, các địa phương trong vùng về nguồn lực.
Để
giúp chúng ta nhận diện khái quát mô hình tổ chức Kiểm định Vùng, tác
giả trình bày một số nội dung cơ bản thể hiện sự khác biệt giữa tổ chức
Kiểm định Vùng và tổ chức kiểm định khu vực tư như sau:
Vấn đề
Tổ chức Kiểm định Vùng(khu vực công)
Tổ chức kiểm định khu vực tư
Sứ mệnh
Đánh giá cơ sở, chương trình đào tạo có tính đặc thù, thiết yếu hoặc chưa có tiền lệ
Đánh giá cơ sở, chương trình đào tạo không có tính đặc thù, thiết yếu
Địa vị pháp lý
Được Nhà nước thành lập, cấp phép hoạt động
Được tổ chức, cá nhân thành lập, được Nhà nước cấp phép hoạt động
Có tư cách pháp nhân
Có tư cách pháp nhân hoặc không có tư cách pháp nhân
Cơ chế tổ chức và hoạt động
Tổ chức, hoạt động dựa trên cơ chế phân quyền
Tổ chức, hoạt động dựa trên cơ chế ủy quyền
Lĩnh vực hoạt động
Đánh giá cơ sở, chương trình đào tạo có tính đặc thù, thiết yếu
Đánh giá cơ sở, chương trình đào tạo giáo dục nghề nghiệp ngoại trừ lĩnh vực đặc thù, thiết yếu
Phạm vi hoạt động
Theo vùng, miền (khu vực)
Toàn quốc
Đội ngũ
Kiểm định viên là viên chức nhà nước
Kiểm định viên là nhân viên hợp đồng lao động
Tài chính
Ngân sách nhà nước hỗ trợ
Tự chủ tài chính
Tổ
chức Kiểm định Vùng hay tổ chức kiểm định khu vực tư có những điểm khác
biệt chính như đề cập ở trên nhưng các mô hình này đều hoạt động hướng
tới mục tiêu chung đó là cung cấp dịch vụ công kiểm định chất lượng giáo
dục nghề nghiệp cho hệ thống cơ sở giáo dục nghề nghiệp. Có thể nói dựa
vào cơ sở lý luận quản lý, quản trị và pháp luật hiện hành, đặc biệt là
những đòi hỏi, yêu cầu thực tiễn quản lý chất lượng giáo dục nghề
nghiệp thì mô hình tổ chức Kiểm định Vùng có ý nghĩa, vai trò hết sức
cần thiết, đảm trách sứ mệnh đặc biệt điều mà các tổ chức khu vực ngoài
nhà nước không thể hoặc khó thực hiện.
2. Sự cần thiết của tổ chức Kiểm định Vùng?
Khi
chúng ta bàn về thiết chế tổ chức Kiểm định Vùng sẽ có câu hỏi đặt ra
tại sao cần phải có tổ chức này khi mà đã có mạng lưới tổ chức kiểm định
chất lượng giáo dục nghề nghiệp khu vực tư. Câu trả lời sẽ được tác giả
trình bày, phân tích theo các luận cứ sau đây:
2.1. Cơ sở lý luận
Theo
lý luận quản lý giáo dục thì kiểm định chất lượng giáo dục nghề nghiệp
là chức năng quản lý nhà nước quan trọng nhằm duy trì, đảm bảo và nâng
cao chất lượng đào tạo giáo dục, giáo dục nghề nghiệp. Đây là một trong
những nội dung quản lý nhà nước trong lĩnh vực giáo dục nghề nghiệp nhằm
triển khai các hoạt động chuyên môn về giáo dục nghề nghiệp trong thực
tiễn góp phần cung cấp nguồn nhân lực chất lượng cho nền kinh tế đất
nước.
Xét
về khía cạnh quản trị công thì Nhà nước là chủ thể duy nhất có chức
năng, thẩm quyền cung cấp dịch vụ công kiểm định chất lượng giáo dục
nghề nghiệp. Đề cập điều này không phải để nói Nhà nước ôm đồm quyền lực
mà để khẳng định chỉ có Nhà nước mới có đủ năng lực để đảm trách sứ
mệnh điều mà các tổ chức, cá nhân khu vực ngoài nhà nước không thể gánh
vác được. Hơn nữa, vai trò của Nhà nước mà cụ thể là tổ chức kiểm định
tại mỗi vùng rất quan trọng trong cấu trúc quản trị đa cấp độ (quốc gia –
vùng – địa phương – cơ sở đào tạo), giúp tham vấn, phát triển các hoạt
động chuyên môn của hệ thống kiểm định và bảo đảm chất lượng giáo dục
nghề nghiệp trong bối cảnh nguồn lực của trung ương, địa phương chưa đáp
ứng đầy đủ, kịp thời.
Ở
khía cạnh khác, có thể khẳng định kiểm định chất lượng giáo dục nghề
nghiệp là chức năng quan trọng, quyết định chất lượng đào tạo nghề
nghiệp do vậy trên bình diện thực tiễn để đánh giá chất lượng giáo dục
nghề nghiệp đảm bảo tính hệ thống, bao phủ và toàn diện thì cần thiết
phải hình thành mạng lưới tổ chức kiểm định khu vực công mà cụ thể là
các tổ chức Kiểm định Vùng tại mỗi vùng, miền.
Từ
những vấn đề đã phân tích, đề cập ở trên cho thấy rằng mô hình tổ chức
Kiểm định Vùng với tư cách là đơn vị của Nhà nước là thiết chế hữu hiệu,
phù hợp với cơ sở lý luận về quản lý, quản trị công, khẳng định vai trò
không thể thay thế của Nhà nước trong mọi lĩnh vực, hoạt động và các
tình huống, vấn đề nảy sinh hằng ngày trong thực tiễn đời sống xã hội
nói chung.
2.2. Cơ sở thực tiễn và kinh nghiệm quốc tế:
Theo
số liệu của Bộ LĐTB&XH thì đến nay mạng lưới tổ chức kiểm định chất
lượng giáo dục nghề nghiệp với 04 tổ chức được cấp phép đã tiến hành
hoạt động đánh giá cơ sở, chương trình đào tạo giáo dục nghề nghiệp. Tất
cả các các tổ chức kiểm định hiện hành đều là tổ chức khu vực tư, chưa
có tổ chức kiểm định khu vực công. Các tổ chức kiểm định hiện hành mới
đi vào hoạt động được gần hai năm và theo ý kiến các chuyên gia, nhà
quản lý có những nảy sinh trong thực tiễn quản lý chất lượng giáo dục
nghề nghiệp cần phải quan tâm, đó là:
*
Tổ chức kiểm định khu vực tư đã được trao đầy đủ thẩm quyền, đủ năng
lực để tiến hành kiểm định hầu hết các cơ sở, chương trình đào tạo chưa?
Đây là vấn đề được đặt ra khi tổ chức kiểm định khu vực tư tiến hành
đánh giá đối với cơ sở giáo dục nghề nghiệp, chương trình đào tạo có
tính đặc thù, thiết yếu (an ninh quốc gia, bảo trợ xã hội, hoạt động
chuyển giao…)? Các chương trình đào tạo chuyển giao quốc tế đã được cơ
quan có thẩm quyền cấp phép thực hiện thì tổ chức kiểm định hiện hành
có đủ thẩm quyền, năng lực để đánh giá không hoặc có thể đây lại là hoạt
động đánh giá lại? Vấn đề các tổ chức kiểm định khu vực tư có đảm trách
sứ mệnh, nhiệm vụ trong các bối cảnh đất nước lâm vào khủng hoảng, suy
thoái kinh tế, đại dịch, chiến tranh…?
Do
vậy, câu hỏi đặt ra nếu các tổ chức kiểm định khu vực tư không thể hoặc
chỉ có thể thực hiện được phần nào đó thì Nhà nước có cần phải thiết
lập mô hình như tổ chức Kiểm định Vùng hay không?!
*
Cơ quan có thẩm quyền đánh giá, thẩm định kết quả xây dựng hệ thống bảo
đảm chất lượng của cơ sở giáo dục nghề nghiệp là vấn đề đang còn bỏ
ngõ, chưa được luật hóa?
Theo pháp luật hiện hành thì hoạt động này chưa được giao cho các tổ
chức kiểm định hiện hành, hơn nữa đây là hoạt động đánh giá có tính đặc
thù (tự chủ). Vấn đề đặt ra tổ chức kiểm định (khu vực công – tư) nào sẽ
thực hiện hoạt động đánh giá đặc thù (chưa được luật hóa) này? Tổ chức
Kiểm định Vùng có phải là phù hợp để đánh giá, thẩm định kết quả xây
dựng hệ thống bảo đảm chất lượng của các cơ sở giáo dục nghề nghiệp hay
không?
*
Đối với hoạt động quản lý ngân hàng đề thi, quản lý, phát triển đội ngũ
kiểm định viên quốc gia đặt ra vấn đề đó là quy mô bộ máy, cơ cấu tổ
chức và số lượng đội ngũ hiện hành có đảm đương?
Công tác quản lý ngân hàng đề thi sát hạch kiểm định viên và quản lý,
phát triển đội ngũ kiểm định viên quốc gia là hoạt động quan trọng,
quyết định chất lượng kiểm định giáo dục nghề nghiệp cho nên yêu cầu
trước hết là phải có tổ chức bộ máy, đội ngũ nhân lực tương xứng để hoàn
thành sứ mệnh đề ra. Việc đảm bảo quy mô, tổ chức bộ máy, đội ngũ nhân
lực thực hiện công tác quản lý, phát triển đội ngũ kiểm định viên quốc
gia, quản lý ngân hàng đề thi sát hạch kiểm định viên là cần thiết nhưng
hiện nay để thực hiện được điều này rất khó khăn, do đó việc phân quyền
triển khai các hoạt động này cho tổ chức sự nghiệp khu vực công là phù
hợp, khả thi.
* Kinh nghiệm quốc tế:
Kiểm định chất lượng giáo dục là mô hình quản lý đã triển khai thành
công ở các quốc gia có nền giáo dục phát triển như Mỹ, Anh, Đức, Úc, New
Zealand, Canada, Trung Quốc, ASEAN ….Ngoại trừ Mỹ, Phi líp pin, còn
hầu hết chính phủ các nước đều không ủy quyền toàn bộ chức năng kiểm
định chất lượng giáo dục cho các tổ chức, cá nhân khu vực tư mà chỉ ủy
quyền hạn chế, có kiểm soát trong một số lĩnh vực, hoạt động giáo dục
nhất định. Đây là điểm khác biệt giữa Việt Nam và các quốc gia khác.
Tóm
lại, từ những luận cứ đã được phân tích ở trên cho thấy chỉ có nhà nước
hoặc cơ quan, tổ chức kiểm định chất lượng giáo dục khu vực công mới có
thể đảm trách, giải quyết hầu hết các vấn đề nảy sinh trong thực tiễn
quản lý chất lượng giáo dục nghề nghiệp, điều mà các tổ chức, cá nhân
khu vực tư không thể hoặc khó có thể thực hiện được.
3. Đề xuất mô hình Tổ chức Kiểm định Vùng
3.1. Sứ mệnh:
Tổ
chức Kiểm định Vùng có vị trí quan trọng trong cấu trúc quản trị đa cấp
độ quốc gia – vùng – địa phương – cơ sở đào tạo giúp phát triển các
hoạt động của hệ thống kiểm định và bảo đảm chất lượng giáo dục nghề
nghiệp trong điều kiện mà nguồn lực trung ương, địa phương còn hạn chế,
cần được chia sẻ gánh nặng. Tổ chức Kiểm định Vùng đảm nhận sứ mệnh cao
cả điều mà các tổ chức kiểm định khu vực ngoài nhà nước không thể hoặc
khó thực hiện. Trong vai trò là tổ chức kiểm định phạm vi vùng của nhà
nước tổ chức Kiểm định Vùng đảm trách vai trò tham vấn, điều phối và
triển khai các hoạt động phát triển hệ thống kiểm định và bảo đảm chất
lượng giáo dục nghề nghiệp trong phạm vi vùng hoạt động.
3.2. Chức năng chính:
– Tổ chức đánh giá các cơ sở giáo dục nghề nghiệp, chương trình đào tạo trong các lĩnh vực đặc thù, thiết yếu.
– Tổ
chức đánh giá theo yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối với
trường cao đẳng chất lượng cao, chương trình đào tạo chất lượng cao,
chương trình chuyển giao quốc tế trong lĩnh vực giáo dục nghề nghiệp.
– Tổ
chức đánh giá lại kết quả kiểm định chất lượng cơ sở, chương trình đào
tạo của các tổ chức kiểm định theo yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền.
– Tổ
chức đánh giá, thẩm định báo cáo xây dựng hệ thống bảo đảm chất lượng
của trường cao đẳng chất lượng cao, các cơ sở giáo dục nghề nghiệp khác
theo yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
3.3. Phạm vi hoạt động:
Dựa
theo phân bố địa lý, lý thuyết cấu trúc quản trị đa cấp độ, bao gồm:
quốc gia – vùng – địa phương – cơ sở đào tạo thì tổ chức Kiểm định Vùng
sẽ được phân bố ở 03 vùng, miền (miền Bắc, Trung và Nam). Mỗi miền sẽ có một trung tâm kiểm định vùng để thực hiện chức năng, nhiệm vụ trong phạm vi hoạt động.
4- Kết luận
Việc
nghiên cứu, đề xuất thiết chế tổ chức Kiểm định Vùng dựa trên cơ sở lý
luận quản lý, quản trị công là hết sức cần thiết, cần được sự quan tâm
sâu sắc của các nhà nghiên cứu, hoạch định chính sách trong lĩnh vực
giáo dục nghề nghiệp. Vấn đề thiết lập tổ chức Kiểm định Vùng rất thuận
lợi, hợp lý và hợp pháp bởi vì các nhà hoạch định chính sách đã có đầy
đủ cơ sở pháp lý từ cấp độ văn bản cao nhất là luật, đồng thời các luận
cứ thực tiễn cũng rất đa dạng, phù hợp, đặc biệt là các kinh nghiệm quốc
tế trong lĩnh vực này. Bài viết đã được tác giả phân tích, đưa ra một
số gợi ý mang tính chất tham khảo cho các nhà nghiên cứu, hoạch định
chính sách quyết định nhanh hơn trong việc thiết lập mô hình tổ chức
Kiểm định Vùng góp phần đảm bảo, nâng cao chất lượng giáo dục nghề
nghiệp, hiện thực hóa chủ trương đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và
hội nhập quốc tế./.
Nguyễn Thừa Thế Đức (Mọi thông tin trao đổi, góp ý xin được gửi về địa chỉ email: duc82molisa@gmail.com – mobile: 0983189608).
Để đáp ứng nguồn nhân lực chất lượng cao, nhu cầu học tập suốt đời của người lao động, trong thời gian tới, giáo dục nghề nghiệp buộc phải phát triển theo hướng mở, linh hoạt, liên thông, hiện đại, hội nhập quốc tế và bao trùm.
Tại
hội nghị tổng kết 8 năm thực hiện đề án “Xây dựng xã hội học tập giai
đoạn 2012-2020” do Bộ GD&ĐT tổ chức, ông Phạm Vũ Quốc Bình, Phó Tổng
cục trưởng Tổng cục Giáo dục nghề nghiệp (Bộ LĐ-TB&XH) cho biết,
quy mô, nhu cầu học tập suốt đời các cấp trình độ giáo dục nghề nghiệp
là rất lớn.
Theo
tính toán, đối tượng của giáo dục nghề nghiệp chiếm từ 75%-80% lực
lượng lao động. Để đáp ứng nhu cầu học nghề của người lao động, trong
những năm qua, Bộ LĐ-TB&XH triển khai đồng bộ 3 cấp độ đào tạo: sơ
cấp, trung cấp, cao đẳng và các trình độ đào tạo dưới 3 tháng với hình
thức chính quy và thường xuyên.
Mạng
lưới các trường Trung cấp, Cao đẳng, Trung tâm giáo dục nghề nghiệp,
GDTX có khoảng 1909 cơ sở. Tuy nhiên, nếu tính cả các làng nghề, các
doanh nghiệp tham gia đào tạo nghề thì con số phải đến hàng trăm nghìn
cơ sở.
Bộ
LĐ-TB&XH đã ban hành hệ thống chính sách tạo điều kiện huy động các
lực lượng tham gia vào hệ thống giáo dục nghề nghiệp. Trong đó trao
quyền tự chủ tối đa cho các cơ sở giáo dục nghề nghiệp, từ tự chủ về
chuyên môn, xây dựng chương trình, phương thức đào tạo đến chỉ tiêu
tuyển sinh. Chuẩn đầu ra của gần 300 nghề với các cấp trình độ đào tạo
cũng đã được ban hành.
(Ông Phạm Vũ Quốc Bình, Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Giáo dục nghề nghiệp cho biết, trong thời gian qua, Bộ LĐ-TB&XH đã tham mưu cho Chính phủ, các Bộ, ban ngành ban hành chính sách hỗ trợ miễn giảm học phí cho các đối tượng gia đình người có công, người dân tộc thiểu số, ngành nghề nặng nhọc độc hại, chính sách miễn giảm học phí cho học sinh THCS học trình độ Trung cấp, thanh niên nghĩa vụ quân sự, công an, chính sách tín dụng cho học sinh, sinh viên có hoàn cảnh khó khăn…)
Để
tiến tới hội nhập thị trường lao động quốc tế, Bộ LĐ-TB&XH hướng
đến phát triển hệ thống đào tạo chất lượng cao, các ngành nghề trọng
điểm quốc gia, khu vực và quốc tế. Mạnh dạn thí điểm việc chuyển giao
các gói đào tạo của các nước phát triển như của Úc, Đức. Bao gồm chuyển
giao cả chương trình, phương pháp đánh giá, đội ngũ nhà giáo, quản trị
nhà trường.
Đến
nay, đã chuyển giao được 12 nghề của Úc và 22 nghề của Đức. Sau khi
chuyển giao, người học có được 2 bằng song song, 1 bằng do trường Việt
Nam cấp và 1 bằng của nước chuyển giao cấp. Người học có thể tham gia
vào thị trường lao động quốc tế vì được công nhận trình độ.
Những
nỗ lực trong đổi mới hệ thống giáo dục nghề nghiệp đã giúp cho việc
tuyển sinh trong những năm gần đây luôn vượt chỉ tiêu. Trong giai đoạn
từ năm 2011-2020, hệ thống giáo dục nghề nghiệp tuyển sinh được 103% kế
hoạch. Mặc dù ảnh hưởng bởi dịch Covid-19, trong năm 2019-2020 các
trường nghề vẫn tuyển sinh được 101,9% kế hoạch.
Tuy
nhiên, để đáp ứng được nhu cầu nguồn nhân lực chất lượng cao, đáp ứng
nhu cầu học tập suốt đời của người lao động, ông Phạm Vũ Quốc Bình, Phó
Tổng cục trưởng Tổng cục Giáo dục nghề nghiệp (Bộ LĐ-TB&XH) nhấn
mạnh, trong thời gian tới, việc phát triển giáo dục nghề nghiệp phải
theo hướng mở, linh hoạt, liên thông, hiện đại, hội nhập quốc tế và bao
trùm.
Yếu
tố liên thông ở đây không nghĩa chỉ là liên thông trong nội tại hệ
thống giáo dục nghề nghiệp với các hệ thống khác trong hệ thống giáo dục
quốc dân mà phải xác định liên thông giữa hệ thống giáo dục nghề nghiệp
với hệ thống kỹ năng, với các hệ thống khác của quốc tế.
Chú
trọng đào tạo chất lượng cao và đào tạo lại, đào tạo nâng cao kỹ năng,
đào tạo chuyển nghề, đào tạo thích ứng cho lực lượng lao động đang trong
thị trường lao động.
“Như
vậy, mỗi năm có khi phải đào tạo hàng chục triệu người để thích ứng
được với những thay đổi của khoa học công nghệ, sự thay đổi của thị
trường lao động.” – ông Phạm Vũ Quốc Bình nhấn mạnh.
Để
thực hiện được mục tiêu này, ông Phạm Vũ Quốc Bình cho rằng, ngoài việc
tiếp tục hoàn thiện thể chế chính sách, tăng quyền tự chủ cho các
trường thì điều tiên quyết là phải tăng cường sự tham gia của doanh
nghiệp vào giáo dục nghề nghiệp, tăng cường đào tạo lại, đào tạo chuyển
nghề, đào tạo thích ứng cho người đang hoạt động trong thị trường lao
động.
“Mục tiêu biến các doanh nghiệp thành các cơ sở đào tạo giáo dục nghề nghiệp, triển khai công nhận trình độ kỹ năng cho người lao động. Người lao động có kỹ năng, được rèn luyện, có kinh nghiệm thì có cơ chế để công nhận trình độ của họ, dù họ đã qua trường lớp hay chưa qua trường lớp.” – ông Phạm Vũ Quốc Bình chia sẻ.
Nâng cao chất lượng, kỹ năng của lao động Việt Nam, nhất là lao động người dân tộc thiểu số (DTTS) là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu, góp phần tăng năng suất lao động và năng lực cạnh tranh quốc gia giai đoạn 2021 – 2025. Để tìm hiểu kỹ hơn về vấn đề giáo dục nghề nghiệp trong bối cảnh đại dịch Covid 19, phóng viên Báo Dân tộc và Phát triển đã có cuộc trao đổi với ông Trương Anh Dũng, Tổng Cục trưởng Tổng cục Giáo dục nghề nghiệp (Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội) xung quanh vấn đề này.
Tiến sĩ Trương Anh Dũng, Tổng Cục trưởng Tổng cục Giáo dục nghề nghiệp.
Từ đầu năm 2020 đến nay, Việt Nam cũng như toàn thế giới đều bị ảnh hưởng, tác động nghiêm trọng bởi đại dịch Covid-19 trên mọi lĩnh vực. Trong bối cảnh đó, công tác giáo dục nghề nghiệp (GDNN) đã vượt khó, đạt được những kết quả gì nổi bật, thưa ông?
Năm 2020, công tác GDNN đã đạt được những dấu ấn nhất định, trong bối cảnh khó khăn do bị ảnh hưởng của đại dịch Covid 19. Đầu tiên là, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 24/CT-TTg ngày 28/5/2020 về phát triển nhân lực có kỹ năng nghề. Năm 2020, cũng là năm Thủ tướng Chính phủ quyết định chọn ngày 4/10 hàng năm là ngày Kỹ năng Lao động Việt Nam để tôn vinh và lan tỏa giá trị của lao động có kỹ năng nghề, kêu gọi cộng đồng trách nhiệm đối với phát triển GDNN.
Năm 2020, đại dịch Covid-19 đã tác động nhiều đến công tác tuyển sinh và đào tạo của cả hệ thống GDNN. Tuy nhiên, công tác tuyển sinh vẫn đạt kế hoạch đề ra; kết quả phân luồng sau trung học, nhất là trung học cơ sở tốt hơn nhiều các năm trước; người lao động bị ảnh hưởng bởi dịch bệnh, lao động vùng biên, người DTTS được quan tâm hỗ trợ đào tạo nghề, để sớm quay lại thị trường lao động tìm kiếm việc làm.
Năm 2020, cũng là năm chúng ta đã tổ chức thành công Ngày hội khởi nghiệp quốc gia trong học sinh, sinh viên. Qua đó, góp phần tạo ra một hệ sinh thái khởi nghiệp trong hệ thống GDNN, được Chính phủ đánh giá cao.
Mặc dù GDNN đã được chú trọng, nhưng thực tế nước ta vẫn còn thiếu lao động có trình độ tay nghề, công nhân kỹ thuật bậc cao. Tổng cục GDNN đã có giải pháp gì để nâng cao chất lượng lao động có tay nghề cao, thưa ông?
Những năm gần đây, Tổng cục GDNN đã thực hiện nhiều giải pháp để tạo ra nguồn nhân lực lao động có chất lượng cao. Từ năm 2014, Tổng Cục GDNN đã tham mưu cho Lãnh đạo Bộ LĐTB&XH, trình Ban Bí thư ban hành Chỉ thị số 37-CT/TW về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác đào tạo nhân lực có tay nghề cao; Trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Đề án phát triển trường nghề chất lượng cao đến năm 2020; Tiến hành quy hoạch các ngành nghề trọng điểm; chuyển giao các bộ chương trình; đào tạo, bồi dưỡng giáo viên và cán bộ quản lý dạy nghề; đầu tư cơ sở vật chất, thiết bị đào tạo tiên tiến, hiện đại cho các trường; ban hành thông tư quy định tiêu chí xác định chương trình GDNN chất lượng cao…
Một lớp học nghề mộc dân dụng tại Trường Cao đẳng nghề Yên Bái
Trong đó, Tổng cục GDNN đã đặt hàng đào tạo với doanh nghiệp, người sử dụng lao động; tổ chức đào tạo thí điểm theo 12 bộ chương trình chuyển giao từ Úc cho 12 nghề (theo tiêu chuẩn quốc tế của Úc) cho trên 800 sinh viên hệ cao đẳng đã tốt nghiệp năm 2020; 100% các em ra trường đều có việc làm ngay tại các doanh nghiệp trong và ngoài nước.
Hiện, Tổng cục GDNN đang triển khai nhân rộng trong toàn hệ thống, đồng thời đang tổ chức đào tạo thí điểm cho 22 nghề theo 22 bộ chương trình chuyển giao từ Đức nghề (theo tiêu chuẩn quốc tế của Đức) cho trên 1.056 sinh viên hệ cao đẳng. Các sinh viên tốt nghiệp này sẽ là lực lượng lao động chất lượng cao lan tỏa, nòng cốt trong toàn hệ thống và xã hội, góp phần thực hiện thành công các nhiệm vụ chính phủ giao.
Năm 2021, hệ thống GDNN dự kiến sẽ tuyển sinh 2,5 triệu người. Theo ông, để đạt chỉ tiêu này, chúng ta cần phải có những giải pháp gì? Nhất là đối với lĩnh vực đào tạo nghề cho lao động nông thôn, lao động người dân tộc thiểu số?
Thực hiện Chương trình Mục tiêu Quốc gia về phát triển kinh tế- xã hội vùng đồng bào DTTS và miền núi giai đoạn 2021-2030, Bộ LĐTB&XH đã tham gia triển khai thực hiện Tiểu dự án 3 “Phát triển GDNN và giải quyết việc làm cho người lao động vùng DTTS” thuộc Dự án 5 “Phát triển giáo dục đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực”. Theo đó, Bộ LĐTB&XH đã đặt mục tiêu là, tăng cường công tác đào tạo nghề phù hợp với nhu cầu, điều kiện của đồng bào DTTS; đào tạo, đào tạo lại cho khoảng 2,25 triệu người để tạo thêm việc làm, tăng thu nhập cho đồng bào vùng DTTS và hộ dân tộc Kinh nghèo, cận nghèo vùng dân tộc…
Bên cạnh đó, để đạt được mục tiêu tuyển sinh, đào tạo cho 2,5 triệu người trong năm 2021, ngay từ đầu năm, Tổng cục GDNN đã chỉ đạo, hướng dẫn các địa phương, cơ sở GDNN thực hiện đồng bộ các giải pháp; đồng thời rà soát, sửa đổi bổ sung các cơ chế, chính sách hỗ trợ học nghề, tạo việc làm sau đào tạo; đề xuất và triển khai thực hiện các chương trình, dự án trong chương trình mục tiêu quốc gia giai đoạn 2021-2025.
Bên cạnh đó, để đạt được mục tiêu tuyển sinh, đào tạo cho 2,5 triệu người trong năm 2021, ngay từ đầu năm, Tổng cục GDNN đã chỉ đạo, hướng dẫn các địa phương, cơ sở GDNN thực hiện đồng bộ các giải pháp; đồng thời rà soát, sửa đổi bổ sung các cơ chế, chính sách hỗ trợ học nghề, tạo việc làm sau đào tạo; đề xuất và triển khai thực hiện các chương trình, dự án trong chương trình mục tiêu quốc gia giai đoạn 2021-2025.
Học sinh THCS trên địa bàn TP. Lào Cai trong một đợt dã ngoại, trải nghiệm học nghề tại Trường Cao đẳng Lào Cai
Đặc biệt, Tổng Cục GDNN sẽ tham mưu cho Lãnh đạo Bộ nghiên cứu đào tạo các ngành, phù hợp với đặc thù phong tục, tập quán, đặc điểm kinh tế-xã hội vùng đồng bào DTTS&MN và nhu cầu của thị trường lao động, nhất là đào tạo trình độ sơ cấp và ngắn hạn dưới 3 tháng, tạo điều kiện cho đồng bào DTTS học nghề, tự tạo việc làm, tham gia xuất khẩu lao động, nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống.
Bên cạnh đó, Bộ sẽ tổ chức đặt hàng đào tạo đối với những ngành nghề mà xã hội, doanh nghiệp có nhu cầu cao, gắn với giải quyết việc làm sau đào tạo. Theo đó, Tổng cục GDNN sẽ xây dựng các mô hình đào tạo nghề, với giải quyết việc làm và hiệu quả việc làm sau đào tạo. Ví dụ mô hình đào tạo nghề nhằm phát triển thị trường nông sản truyền thống, dược liệu quý, du lịch cộng đồng…. Đồng thời, tăng cường các điều kiện bảo đảm dạy và học cho các cơ sở GDNN vùng DTTS và miền núi, nhất là các trường dân tộc nội trú, trường chất lượng cao.
Tổng cục GDNN cũng sẽ phối hợp với các cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp hỗ trợ người lao động thuộc vùng đồng bào DTTS và miền núi học nghề, học ngoại ngữ để đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài theo hợp đồng; cung cấp thông tin thị trường lao động, dịch vụ hỗ trợ tìm kiếm, kết nối việc làm, vay vốn cho lao động là người DTTS. Đồng thời, đẩy mạnh tuyên truyền, tư vấn hướng nghiệp, khởi nghiệp, học nghề, việc làm và các dịch vụ hỗ trợ việc làm, đi làm việc ở nước ngoài cho lao động người DTTS.
Đặc biệt, trong bối cảnh dịch bệnh phức tạp, hệ thống GDNN sẽ đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, từng bước triển khai, hình thành phương thức tuyển sinh, đào tạo trực tiếp sang trực tuyến. Phương thức này không chỉ dừng ở việc đối phó với dịch bệnh, mà đã và đang trở thành một xu thế mới trong GDNN.
Trân trọng cảm ơn ông!
(Nội dung thông tin, tuyên truyền thực hiện Nghị quyết số 84/NQ-CP ngày 29/5/2020 của Chính phủ)
Đầu tư cho giáo dục nghề nghiệp (GDNN) cần được nhìn nhận là “đầu tư phát triển” thay cho “đầu tư vào vốn con người” như trong Dự thảo thể hiện. Bởi lẽ đầu tư cho phát triển chính là sự đầu tư lâu dài, trên nhiều phương diện, trong đó đã bao hàm cả việc đầu tư vào vốn con người. Sự đầu tư này cũng sẽ tác động đến các mặt kinh tế – xã hội của đất nước”, PGS, TS Dương Đức Lân, Chủ tịch Hiệp hội GDNN và nghề Công tác xã hội Việt Nam góp ý về quan điểm, mục tiêu phát triển GDNN trong Dự thảo Đề án Chiến lược phát triển GDNN giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến 2045. Theo PGS, TS Dương Đức Lân, một số nội dung trong Dự thảo Đề án cần được nhìn nhận, thể hiện một cách tổng quát hơn.
Ngày 21/6, Hiệp hội GDNN và nghề CTXH Việt Nam đã tổ chức Hội nghị Ban chấp hành Hiệp hội, đóng góp ý kiến xây dựng Dự thảo Chiến lược phát triển GDNN giai đoạn 2021-2030 và tầm nhìn đến năm 2045. Với sự hội tụ trí tuệ của các thành viên từng giữ nhiều chức vụ chủ chốt của ngành LĐ-TB&XH, tiếng nói từ thực tiễn của đại diện các thành viên đến từ các cơ sở GDNN, Hiệp hội đã có nhiều ý kiến tâm huyết, đề cập toàn diện đến nhiều nội dung phát triển GDNN góp ý xây dựng Dự thảo Đề án Chiến lược.
Dự báo các yếu tố tác động đến sự phát triển của GDNN
Với việc vạch ra quan điểm, mục tiêu phát triển cho cả một giai đoạn 10 năm từ 2021-2030 và tầm nhìn đến năm 2045, nhiều ý kiến của thành viên Hiệp hội cho rằng, Đề án Chiến lược cần dự báo được các yếu tố tác động đến sự phát triển của GDNN.
Bà Nguyễn Thị Hằng – nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, nguyên Bộ trưởng Bộ LĐ-TB&XH, nguyên Chủ tịch Hiệp hội GDNN và nghề CTXH Việt Nam (ở giữa)
Theo bà Nguyễn Thị Hằng – nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, nguyên Bộ trưởng Bộ LĐ-TB&XH, nguyên Chủ tịch Hiệp hội GDNN và nghề CTXH Việt Nam: Chiến lược phát triển GDNN giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2045 cần đưa ra được dự báo về phát triển kinh tế – xã hội 10 năm tới từ tổng thể đến các ngành nghề cụ thể. Ngành nghề nào sẽ xuất hiện, ngành nghề nào sẽ có sự phát triển nổi trội, ngành nghề nào sẽ bị thay thế. Ngành nghề nào sẽ được tự động hóa, ngành nghề nào còn sử dụng lao động trực tiếp. Bởi có dự báo được điều này, các cơ sở GDNN mới có phương hướng phát triển, đào tạo nghề phù hợp.
Chiến lược cũng phải dự báo được phát triển dân số và nguồn nhân lực của cả nước như dân số tăng, giảm như thế nào, nguồn nhân lực về tổng thể, cơ cấu, độ tuổi, nam nữ, vùng miền ra sao để có phương hướng phát triển phù hợp, tránh tình trạng dư thừa lao động ở thành phố, thiếu hụt lao động có kỹ năng nghề ở vùng sâu, vùng xa. Dự báo tiền lương phổ thông trong khu vực, trong các ngành nghề sẽ tăng giảm như thế nào.
TS Phan Chính Thức, Phó Chủ tịch Hiệp hội GDNN và Nghề CTXH Việt Nam
Nhấn mạnh việc vai trò của chiến lược GDNN, TS Phan Chính Thức – nguyên Phó Chủ tịch Hiệp hội GDNN và nghề CTXH Việt Nam cho biết, hệ thống GDNN của các nước thường lo toan sức ép của hiện tại hơn là tính toán đến những vấn đề của tương lai. Trong khi đó, Dự thảo Chiến lược phát triển GDNN của Việt Nam bên cạnh việc lo giải bài toán về sức ép hiện tại cũng đã đưa ra các chiến lược phát triển của hệ thống trong tương lai. Điều này thể hiện sự quan tâm của Tổng cục GDNN đối với các vấn đề phát triển của hệ thống.
Đánh giá Dự thảo Chiến lược đã được xây dựng bài bản, khoa học và công phu, tuy nhiên theo TS Phan Chính Thức, làm chiến lược chưa bao giờ là vấn đề dễ dàng vì nó phụ thuộc vào rất nhiều biến số. Do đó, việc tham gia đóng góp ý kiến xây dựng Dự thảo Chiến lược, đặc biệt là những ý kiến từ thực tiễn của các cơ sở GDNN đối với những vấn đề mang tính dự báo là rất quan trọng, cần thiết.
Coi nhà trường như một xí nghiệp có trình độ chuyên môn cao
Quan tâm đến việc gắn kết giữa nhà trường và doanh nghiệp (DN) trong đào tạo, ông Tô Xuân Giao – Ủy viên Thường vụ BCH Hiệp hội GDNN và nghề CTXH Việt Nam, Giám đốc Công ty TNHH Toàn Á cho rằng, cần định hướng được nhiệm vụ của nhà trường là đào tạo được một người lao động thuần thục các kỹ năng của một nghề, biết sử dụng các loại dụng cụ, máy móc liên quan đến nghề được đào tạo. Bởi lẽ, khi tuyển dụng nhân lực từ các cơ sở GDNN, DN thường mong muốn người lao động phải có các tiêu chí nêu trên.
Thực tế này, đòi hỏi các cơ sở GDNN phải được trang bị phù hợp cũng như có đội ngũ giảng viên phải được thực hành tại nhiều cơ sở sản xuất. Như vậy “cơ sở GDNN có thể coi như một xí nghiệp có trình độ chuyên môn cao với đội ngũ giảng viên là những người có kỹ năng nghề cao cùng trang thiết bị hiện đại tương đương doanh nghiệp hoặc có thể hơn. Lúc đó cơ sở GDNN ngoài nhiệm vụ đào tạo vẫn có khả năng có thể nhận một số sản phẩm phù hợp với để tham gia sản xuất”, ông Tô Xuân Giao nói.
Ông Tô Xuân Giao, Ủy viên Thường vụ BCH Hiệp hội GDNN và nghề CTXH Việt Nam phát biểu tại một phiên họp thường kỳ của Hiệp hội
Cũng theo ông Tô Xuân Giao, việc xem cơ sở GDNN như một xí nghiệp có trình độ chuyên môn cao mang đến nhiều lợi ích. Đó là sử dụng hết công suất máy móc thiết bị; giảng viên luôn được nâng cao tay nghề; học sinh, sinh viên được thực hành thực tập tên sản phẩm thật có sự giám sát, hướng dẫn của giảng viên. Sau khi đã quen với sản xuất học sinh có thể tham gia lao động kỹ thuật cùng các công nhân trong DN mà vẫn đảm bảo chất lượng sản phẩm.
“Tất nhiên khi sử dụng các thiết bị đào tạo và học sinh để tham gia sản xuất hoặc học sinh tham gia sản xuất tại DN, nhà trường và DN phải có chung chương trình giảng dạy, có qui định chặt chẽ để đảm bảo chất lượng thiết bị đào tạo theo từng giai đoạn”, ông Giao lưu ý.
Tham mưu các giải pháp kết hợp giữa nhà trường với DN trong đào tạo, ông Tô Xuân Giao cho rằng, cần nghiên cứu chọn các trường đủ tiêu chuẩn chất lượng cao hoặc tương đương để thành lập Trung tâm vùng, trung tâm phát triển và ứng dụng sản xuất. Các trung tâm vùng này phải là nơi đủ điều kiện trưng dụng các cuộc thi kỹ năng nghề cho học sinh sinh viên, giáo viên, người lao động .,. mọi cấp độ. Là địa điểm có đủ điều kiện để tổ chức cho giáo viên và học sinh gia công sản xuất các sản phẩm theo đặt hàng…
PGS.TS Dương Đức Lân, Chủ tịch Hiệp hội GDNN và nghề CTXH Việt Nam
Đề cập đến đào tạo theo kiểu hướng cầu, PGS.TS Dương Đức Lân cho rằng, đây là nội dung quan trọng cần đề cập đến trong Dự thảo Đề án Chiến lược: “Chiến lược của giai đoạn trước đã đề cập đến nội dung này. Tuy nhiên, mới chỉ có được rất ít trường đào tạo theo kiểu hướng cầu. Các trường này cũng mới chỉ đào tạo được một phần theo kiểu hướng cầu thôi chứ chưa phải hướng cầu hẳn. Còn lại đa số các trường vẫn đào tạo theo kiểu có gì dạy đó”.
Do đó, theo PGS.TS Dương Đức Lân, Đề án Chiến lược của giai đoạn này cần tiếp tục quan tâm thực hiện vấn đề đào tạo theo kiểu hướng cầu, người sử dụng lao động cần gì thì các trường đào tạo nội dung đó.
“Mục tiêu tổng quát của Chiến lược phải là sản phẩm đầu ra. Đó là số lượng, chất lượng, cơ cấu lao động được đào tạo nghề phù hợp với nhu cầu của thị trường lao động”, PGS.TS Dương Đức Lân góp ý.
Cùng quan tâm, NGƯT. TS. Phạm Xuân Khánh, Phụ trách Trường Cao đẳng nghề Công nghệ cao Hà Nội cho biết, thế giới đã và đang trải qua những biến đổi to lớn như chuyển đổi số, cách mạng công nghiệp 4.0, các vấn đề an ninh phi truyền thống, thiên tai, dịch bệnh. Nhiều ngành sản xuất, nhiều phương thức sản xuất sẽ được thay thế và những ngành nghề mới, phương thức mới, việc làm mới sẽ ra đời.
Điều này tạo ra thách thức rất lớn trong vấn đề dư thừa lao động có kỹ năng và trình độ thấp gây phá vỡ thị trường lao động truyền thống, thiếu hụt nhân lực trình độ cao, ảnh hưởng tới tình hình kinh tế- xã hội đất nước. Đồng thời cũng đặt ra bài toán cho các cơ sở GDNN. Đó là phải đổi mới và nâng cao chất lượng dạy và học, tập trung đào tạo chất lượng cao, đào tạo theo hướng mở, linh hoạt, chuyển từ hướng “cung” sang hướng “cầu”, đào tạo gắn kết với nhu cầu sử dụng lao động của DN, đặc biệt là các DN đòi hỏi lao động trực tiếp tay nghề cao ở các lĩnh vực khoa học công nghệ tiên tiến.
Ông Phạm Xuân Khánh, Phụ trách Trường Cao đẳng Công nghệ cao Hà Nội
Theo TS Phạm Xuân Khánh, việc gắn kết giữa DN với đào tạo nghề trong bối cảnh hiện nay cần có sự đa dạng hóa về hình thức, nội dung phối hợp từ công tác tuyển sinh, tham gia giảng dạy, biên soạn chương trình, giáo trình, đánh giá và xếp loại người học, ký kết các hợp đồng đào tạo… đến việc phối hợp với các DN để tổ chức cho người học thực tập sản xuất, thực tập tốt nghiệp tại DN; xây dựng chuẩn đầu ra; nghiên cứu sản xuất, phát triển sản phẩm.
“Bộ Khoa học & Công nghệ, Bộ LĐ-TB&XH, và lãnh đạo các địa phương cần nghiên cứu xây dựng chính sách hỗ trợ cơ sở GDNN thành lập DN khoa học công nghệ. Để trên cơ sở đó, gia tăng nguồn thu từ các hoạt động nghiên cứu khoa học, góp phần tích cực phát triển thị trường khoa học công nghệ theo tinh thần chỉ đạo của Nghị quyết số 20–NQ/TW ngày 31/10/2012, Hội nghị Trung ương 6 khóa XI và của Đề án “Hỗ trợ hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo quốc gia đến năm 2025” đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định 844/QĐ-TTg. Đây cũng là một trong các giải pháp tích cực để cơ sở GDNN có thể thực hiện thành công cơ chế tự chủ theo Nghị định 16/2015/NĐ-CP đã được ban hành vào năm 2020”, TS Phạm Xuân Khánh nêu vấn đề.
“Làm gấp” tự chủ giáo dục nghề nghiệp
Quan tâm đến vấn đề tự chủ của các cơ sở GDNN, TS Nguyễn Thị Hằng – Hiệu trưởng Trường Cao đẳng Kỹ nghệ II cho biết, đây là quy luật phát triển tất yếu. Vấn đề tự chủ của các nhà trường cũng đã nhiều lần được đề cập đến. Tuy nhiên hiện nay mới có 3 cơ sở GDNN thực hiện việc thí điểm tự chủ, trong đó có Trường Cao đẳng Kỹ nghệ 2.
“Nhiều cơ sở GDNN ngần ngại việc tự chủ sẽ gặp rất nhiều khó khăn. Tuy nhiên, quan điểm của Chính phủ thì tự chủ không phải là cắt hết ngân sách của các trường mà là có những sự thay đổi, có những quy định về phân phối và cơ chế tài chính cho việc đầu tư cho GDNN. Dự thảo Đề án Chiến lược cần tiếp cận đúng chủ trương này của Chính phủ về tự chủ”, TS Nguyễn Thị Hằng thông tin.
TS Nguyễn Thị Hằng, Hiệu trưởng Trường Cao đẳng Kỹ Nghệ II
Từ thực tiễn đơn vị, Hiệu trưởng Trường Cao đẳng Kỹ nghệ II cho rằng, việc thực hiện thí điểm cũng có những khó khăn nhất định, tuy nhiên về cơ bản là thực hiện được. “Chỉ có tự chủ, chúng ta mới có thể đào tạo theo hướng mở, linh hoạt. Bởi lẽ khi tự chủ, các cơ sở GDNN không có nguồn thường xuyên của ngân sách nhà nước cấp nên phải rất linh động, linh hoạt trong việc thực hiện các phương thức, cơ chế, mô hình đào tạo. Đặc biệt là tăng cường liên thông, liên kết, ký các hợp đồng hợp tác đào tạo với doanh nghiệp, chứ không chỉ dừng lại ở việc chiêu sinh đào tạo”, TS Nguyễn Thị Hằng cho biết.
Ông Đặng Phúc Sinh, Hiệu trưởng Trường Cao đẳng nghề Việt Úc – Đà Nẵng
Cùng quan điểm, ông Đặng Phúc Sinh – Hiệu trưởng Trường Cao đẳng nghề Việt Úc – Đà Nẵng khẳng định, “phải triển khai gấp vấn đề tự chủ. Tự chủ sẽ tạo ra một sân chơi công bằng, đồng thời là đòn bẩy để hiệu trưởng các cơ sở GDNN công lập có sự phát triển năng động hơn. Trên cơ sở đó, tăng năng lực cạnh tranh của các cơ sở GDNN, nâng tầm chất lượng đào tạo”.
Đẩy mạnh chuyển đổi số trong quản trị GDNN
Đề cập đến vai trò của chuyển đổi số trong quản lý, quản trị nhà trường của hệ thống GDNN, TS Đồng Văn Ngọc – Hiệu trưởng Trường CĐ Cơ điện Hà Nôi cho biết, chuyển đổi số là tất yếu, chuyển đổi số càng chậm sẽ mất đi cơ hội phát triển, đặc biệt không chuyển đổi số sẽ khó có thể tồn tại. “Chúng ta đã nhìn thấy giáo dục, giáo dục đại học, GDNN trên thế giới thực hiện chuyển đổi số và họ đã đi trước một bước trước khi dịch COVID-19 xuất hiện. Các trường học của họ đã quản lý, quản trị từ xa, họ có hệ thống phần cứng, phần mềm, công nghệ, cơ chế quản lý, con người và các nguồn lực, các đối tượng trong nhà trường đều thực hiện trên hệ thống quản lý, quản trị nhà trường số”, TS Đồng Văn Ngọc thông tin.
TS Đồng Văn Ngọc, Hiệu trưởng Trường CĐ Cơ điện Hà Nội
Theo TS Đồng Văn Ngọc, chuyển đổi số để quản lý, quản trị nhà trường trong hệ thống GDNN nước ta gần như mới được các nhà trường nhận ra. Một số trường cũng bắt đầu đẩy mạnh chuyển đổi số các hoạt động quản lý đào tạo, đào tạo trực tuyến, tổ chức các cuộc hội – họp trực tuyến,…
Tuy nhiên còn rất nhiều hạn chế trong vấn đề chuyển đổi số trong các nhà trường GDNN như: Chưa đồng bộ, công nghệ chưa xác định được; việc kết nối hệ thống chuyển đổi số nội bộ và kết nối với hệ thống chuyển đổi số của ngành GDNN chưa có, mới dừng ở mức độ đáp ứng các công việc cấp bách. Chẳng hạn, đại dịch Covid 19 cũng đã tạo ra nhận thức mới, cơ hội bắt buộc các nhà trường, các nhà quản lý nhà trường, nhà giáo, HSSV phải thực hiện công viện trên môi trường mạng, kết nối trực tuyến, mọi người đều phải cập nhật kiến thức, kỹ năng số để tham gia công việc và hoàn thành công việc được giao.
Để đẩy mạnh chuyển đổi số trong quản lý, quản trị nhà trường, TS Đồng Văn Ngọc góp ý: Chiến lược phát triển GDNN giai đoạn 2021-2030 tầm nhìn đến 2045, cần phải xác định và xây dựng hệ thống chuyển đổi số quốc gia về GDNN, hay có thể gọi là “Hệ sinh thái chuyển đổi số GDNN”. Trong đó, việc đẩy mạnh chuyển đổi số các nhà trường GDNN là bắt buộc. Giai đoạn 2021-2025, phấn đấu xây dựng được mô hình chuyển đổi số cho một số các trường có đủ năng lực thí điểm theo mô hình chuyển đổi số hiện đại ngang tầm với các trường của các nước đã có hệ thống chuyển đổi số GDNN ổn định và phát triển trên thế giới.
Theo đó, các nhà trường cần xây dựng đề án chuyển đổi số cho riêng mình phù hợp với công nghệ của Hệ thống chuyển đổi số quốc gia về GDNN; căn cứ chức năng, nhiệm vụ của nhà trường, của các phòng, khoa, đơn vị trực thuộc nhà trường, phân tích đánh giá để xác định những nội dung, công việc có thể chuyển đổi số về quản trị, quản lý, làm việc thì phải thực hiện chuyển đổi số; Trang bị hệ thống phần cứng, hệ thống thiết bị phụ trợ, hệ thống phần mềm đồng bộ, đào tạo chuẩn năng lực quản lý, quản trị số cho cán bộ quản lý, nhà giáo và học sinh sinh viên.
Các nhà trường cũng cần bố trí nhân lực chuyên trách để vận hành, quản trị hệ thống chuyển đổi số, giúp cho hệ thống vận hành an toàn và ổn định, đảm bảo bảo mật thông tin, bảo mật an ninh mạng,…Ngoài ra, cách tiếp cận chuyển đổi số cần linh hoạt và mở để luôn cập nhật công nghệ chuyển đổi số và phù hợp với điều kiện thực tiễn tại Việt Nam. Như vậy thì mới có thể chuyển đổi số thành công và hiệu quả.
Tại Hội thảo, cùng với các ý kiến góp ý về mục tiêu tổng quát của chiến lược, dự báo các vấn đề tác động đến phát triển GDNN, chuyển đổi số trong quản lý, quản trị doanh nghiệp, tự chủ GDNN, thành lập trung tâm phát triển vùng, các ý kiến góp ý của Hiệp hội GDNN và nghề CTXH cũng đề cập đến vấn đề quy hoạch mạng lưới cơ sở GDNN, về cơ chế chính cho các cơ sở GDNN ngoài công lập phát triển, về phân luồng tuyển sinh, nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo…
Trực tiếp tham dự Hội thảo, Tổng cục trưởng Tổng cục GDNN Trương Anh Dũng, Phó Tổng cục trưởng Tổng cục GDNN Phạm Vũ Quốc Bình ghi nhận và đánh giá cao các ý kiến góp ý tâm huyết xây dựng Dự thảo Đề án Chiến lược của Hiệp hội GDNN và nghề CTXH Việt Nam.
Tổng cục trưởng Tổng cục GDNN Trương Anh Dũng tham dự lắng nghe các ý kiến góp ý của Hiệp hội
“Chiến lược là vấn đề dài hơi. Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII đã nêu rõ định hướng phát triển đất nước ta 10 năm tới và các năm tiếp theo là: “Đến năm 2025, là nước đang phát triển, có công nghiệp theo hướng hiện đại, vượt qua mức thu nhập trung bình thấp. Đến năm 2030, là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao. Đến năm 2045, trở thành nước phát triển, thu nhập cao”. Vì vậy, các góp ý của PGS.TS Dương Đức Lân và các thành viên của Hiệp hội về quan điểm và mục tiêu của Chiến lược là rất có giá trị để dẫn dắt các chỉ tiêu, nhiệm vụ, giải pháp cụ thể cho giai đoạn tới”, Tổng cục trưởng Trương Anh Dũng nói.
Trên cơ sở ghi nhận các ý kiến góp ý của Hiệp hội GDNN và nghề CTXH Việt Nam, Tổng cục trưởng Trương Anh Dũng cho biết, sẽ có sự tiếp thu hoàn thiện Dự thảo Đề án Chiến lược để trình lên các cấp cao hơn.
Cũng tại Hội nghị Ban chấp hành Hiệp hội ngày 21/6, Hiệp hội GDNN và nghề CTXH đã thông qua Quy chế hoạt động của Ban chấp hành Hiệp hội và sơ kết công tác 6 tháng đầu năm 2021. Theo đó, một trong những kết quả nổi bật trong hoạt động 6 tháng đầu năm của Hiệp hội là đã tham gia xây dựng, hoàn thiện văn bản pháp luật, cơ chế chính sách
Hiệp hội đã tham gia ý kiến với Tổng cục trong quá trình xây dựng Chiến lược phát triển GDNN giai đoạn 2021 2030. Tham gia ý kiến vào dự thảo Thông tư quy định Điều lệ trường trung cấp, Thông tư quy định Điều lệ trường cao đẳng; tham gia ý kiến để hoàn thiện dự thảo Quy định về tổ chức Hội giảng nhà giáo GDNN toàn quốc năm 2021; dự thảo Thông tư Hướng dẫn thi kỹ năng nghề các cấp theo đề nghị của Tổng cục GDNN; Báo cáo tổng kết “Đào tạo nghề cho lao động nông thôn đến năm 2020 theo Quyết định số 1956/QĐ-TTg”.
Tham gia góp ý kiến phản biện một số quy định về trình độ cao đẳng (về thí điểm chương trình đào tạo trình độ cao đẳng cho học sinh tốt nghiệp THCS) và định hướng hoạt động của Tổng cục GDNN. Chủ tịch Hiệp hội gửi công văn cho Thủ tướng Chính phủ kiến nghị về việc tổ chức dạy văn hóa cho học sinh THCS theo học trong các cơ sở GDNN để giúp tháo gỡ khó cho các cơ sở GDNN có đủ điều kiện được dạy chương trình văn hóa phổ thông.
Hiệp hội cũng đã tham gia ý kiến đối với dự thảo số 1 Lộ trình thực hiện tuyên bố Hà Nội về thúc đẩy công tác xã hội.
Các công tác chuyên môn khác của Hiệp hội trong lĩnh vực GDNN và việc làm, công tác xã hội và chăm sóc sức khoẻ và làm đẹp, công tác truyền thông, nghiên cứu khoa học… cũng đã được triển khai toàn diện và đạt nhiều kết quả tích cực.